Rau mùi, hành tỏi, gừng hay vừng là những loài cây cỏ được sử dụng trong mâm cơm hàng ngày mà ít ai biết tới công dụng tuyệt vời trong điều trị, kiểm soát đường huyết. Được cung cấp dưới góc nhìn khoa học hy vọng bài viết sẽ giúp các bạn tự tin tư vấn cho người thân, bệnh nhân hoặc chính bản thân mình về cách sử dụng các loại thực vật xung quanh chúng ta trong kiểm soát đường huyết.
Một trong những nguyên nhân gây ra đái tháo đường tuýp
2 là do insulin bị mất tính nhạy cảm tại thụ thể tiếp nhận insulin tại mô đích.
Nguyên nhân có thể là do tế bào β tụy bị sai hỏng hoặc bị phá hủy. Các dược
liệu được đề cập dưới đây có tác động giúp tăng tiết insulin và tăng tính nhạy
cảm của insulin với mô đích.
Cỏ ca ri (Trigonella
foenum-graecum)
Cỏ ca ri hay hồ lô ba, khổ đậu (Trigonella foenum-graecum) là một loài cây thuộc về họ Đậu
(Fabaceae). Cỏ ca ri được sử dụng như là cây thuốc (phần lá) cũng như một loại
gia vị (phần hạt). Nó được trồng rộng khắp trên thế giới như là một loại cây
trồng bán khô hạn. Phần hạt được sử dụng để kiểm soát bệnh đái tháo đường với
hiệu quả của nó so với insulin là rất cao. Hạt
cỏ cả ri đã được các nghiên cứu hiện đại công nhận có công dụng khiến cho hạ
chỉ số đường huyết trong máu ở người bệnh tiểu đường. Hoạt chất tác động chính
là 4-hydroxyisoleucine (4-OH-Ile), một axit amin chiết xuất và tinh chế từ hạt
giống cà ri, thể hiện một hoạt tính insulinotropic. Acid amin này có tác dụng
kích thích liệu trình tự tiết insulin từ tuyến tụy. Việc sử dụng hạt cỏ ca ri cũng
cho thấy sẽ làm tăng tính nhạy cảm insulin. Tác động này là do trong hạt cỏ ca
ri có chứa trigonelline - một hợp chất làm tăng độ nhạy cảm của insulin. Ngoài
ra, trong hạt cỏ cả ri còn có chứa nhiều những chất như lipit không no,
protein, đường, chất xơ, những loại khoáng chất như canxi, sắt, kẽm,… Chính vì
thế, hạt cỏ cả ri có tác dụng phòng chống và chữa trị nhiều loại bệnh như bệnh
thận, tăng tiết sữa, điều kinh nguyệt,…
Thì là đen (Nigella sativa)
Nigella
sativa là một loài thực vật có hoa
trong họ Mao lương. Các hợp chất có trong Nigella
sativa đã được chứng minh là có tác dụng trong việc chống đái tháo đường. Hầu
hết các tính chất điều trị của Nigella
sativa là do thymoquinone (2 - isopropyl-5-methyl-1,4-benzoquinone), một thành
phần hoạt tính của tinh dầu. Trong nghiên cứu của Salama, hợp chất này kết hợp đồng
thời với α-lipoic acid và L-carnitine làm tăng lượng insulin và cải thiện sự
trao đổi carbohydrate ở chuột nhắt.
Trà xanh (Camellia
sinensis)
Trong trà xanh có nhiều catechins, đây là dạng
polyphenol nổi bật nhất trong trà xanh (còn gọi là flavonols). Trà xanh còn chứa
một số polyphenol khác, bao gồm flavandiols, flavonoid, axit phenolic. Trong
một nghiên cứu lâm sàng với 2 nhóm bệnh nhân tiểu đường tuýp 2, một nhóm được cho
sử dụng trà xanh chứa 583,8 mg catechins (- nhóm catechin), nhóm còn lại cho sử
dụng lượng 96,6 mg catechins (- nhóm đối chứng), một lần mỗi ngày trong 12
tuần. Nồng độ insulin trong nhóm catechin cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng.
Ngoài ra, nồng độ hemoglobin A1c trong nhóm catechin cũng giảm xuống đáng kể so
với nhóm đối chứng.
Gừng (Zingiber
offcinale)
Hoạt chất chính của gừng là gingerol, một hỗn hợp đồng
đẳng với 10, 12, và 14 cacbon trong chuỗi. Tác dụng chống rối loạn tiêu hóa của
gừng được so sánh với tác dụng của tỏi. 40 con chuột Sprague Dawley đực 5 tuần
tuổi được cho ăn thức ăn giàu chất béo trong 2 tuần và sau đó chia thành 6 nhóm:
nhóm kiểm soát thông thường (NC), nhóm kiểm soát bệnh tiểu đường (DBC), nhóm
cho ăn gừng thấp (GNL), nhóm cho ăn gừng cao (GNH), nhóm cho ăn tỏi thấp (GRL),
nhóm cho ăn tỏi cao (GRH) (với “cao” nghĩa là cho ăn bột khô gừng hay bột khô
tỏi chiếm 2,0% tổng khẩu phần ăn, và “thấp” là 0,5%). Bệnh tiểu đường được gây
ra bởi việc tiêm streptozotocin ở tất cả các nhóm trừ nhóm kiểm soát thông
thường. Kết quả cho thấy insulin huyết ở nhóm NC và GNH cao hơn so với tất cả
các nhóm khác. Trọng lượng cơ thể, đường huyết lúc đói cũng như lipid huyết
không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn gừng hoặc tỏi, cho thấy bằng chứng về cơ chế
kiểm soát insulinotropic chứ không phải hạ đường huyết trong chế độ ăn có gừng
và tỏi, trong đó gừng có tác động mạnh hơn tỏi. Trong một nghiên cứu khác của
Akhani et al. (2006), những con chuột bị tiểu đường gây ra bởi tiêm
streptozotocin đã được kiểm tra các yếu tố liên quan đến nồng độ đường huyết và
insulin trong huyết thanh. Các thụ thể serotonin (5-hydroxytryptamine, 5-HT)
gây tăng đường huyết và hạ đường huyết, trong khi nước gừng có thể làm giảm
đáng kể hiệu ứng tăng đường huyết.
Vừng (Sesamum
indicum)
Vừng hay mè là một loại cây ra hoa thuộc chi Vừng, họ
Vừng. Hạt vừng được cho là có tác dụng giống như insulin hoặc kích thích tế bào
β-tụy tạo ra insulin, do đó giúp giảm lượng đường trong máu. Bằng chứng của tác
động này đã được kết luận từ một nghiên cứu, trong đó có sự gia tăng nồng độ
insulin ở những con chuột bị gây tiểu đường bằng streptozotocin sau khi được
cho sử dụng chiết xuất hạt vừng. Sự tiết insulin không thích hợp với nhịp sinh
học của cơ thể thúc đẩy quá trình tổng hợp glycogen từ glucose. Điều này thật
sự được nhận thấy ở những con chuột bị gây tiểu đường bằng streptozotocin ở
trên khi so sánh với nhóm đối chứng. Trong hạt vừng chứa nhiều chất chuyển hóa
thứ cấp, bao gồm các hợp chất phenolic, terpenes, limonoids, và steroid, tất cả
đều được cho rằng có những vai trò quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết.
Ô-liu (Olea europaea)
Cây Ô-liu là một loại cây nhỏ, sống hàng trăm năm, được
trồng nhiều ở miền duyên hải Địa Trung Hải, ven bờ nam biển Caspi. Trái Ô liu
là một nông phẩm giá trị ở vùng Địa Trung Hải dùng để làm dầu ô liu. Chiết xuất
lá ôliu có tác động chống đái tháo đường thông qua việc kích thích sự phóng
thích insulin. Trong lá ô-liu có chứa oleuropeoside, tiến hành ủ các tế bào đảo
langerhans của chuột trong oleuropeoside với nồng độ tăng dần từ 0,2, 0,4 và
0,8 mg / ml. Sự hiện diện của
oleuropeoside trong các đảo khi ủ với glucose 2,7 mmol/l làm tăng mức insulin
lên đến 0,4 mg/ml.
Lựu (Punica
granatum)
Lựu hay còn gọi là thạch lựu, là một loài thực vật ăn
quả thân gỗ nhỏ có chiều cao từ 5-8 mét. Lựu có nguồn gốc bản địa Tây Nam Á, được
trồng rộng rãi tại Ấn Độ, Israel, Đông Nam Á, châu Phi... Trong nước ép lựu có
chứa Paraoxonase-1 (PON1) là một loại enzyme làm tăng insulin tiết ra từ tế bào
tụy β và có hiệu quả đáng kể trong việc chống oxy hóa. Bên cạnh đó trong nước
ép lựu còn chứa một polyphenol chính là punicalagin có thể cũng gây ra sự tiết
insulin từ tế bào β-tụy.
Rau mùi (Coriandrum
sativum)
Rau mùi hay còn gọi là ngò, ngò rí, mùi ta, ngổ, là
loài cây thân thảo sống hằng năm thuộc họ Hoa tán, có nguồn gốc bản địa từ Tây
Nam Á về phía tây đến tận châu Phi. Có nhiều nghiên cứu liên quan đến tác động
chống đái tháo đường của rau mùi đã được công bố. Khi cho chuột ăn chế độ ăn với
rau mùi lâu dài (hơn 40 ngày) cho thấy loại cây này có thể làm giảm tác dụng
tăng đường huyết ở chuột được gây đái tháo đường bởi streptozotocin. Một nghiên
cứu sau này cho thấy hiệu ứng hạ đường huyết của hạt rau mùi là do hoạt động
kích thích insulin và bắt chước insulin, tăng vận chuyển glucose, oxy hóa
glucose và tăng sự tổng hợp glycogen. Nghiên cứu cũng dự đoán khả năng chống
oxy hoá có thể làm giảm các phản ứng phụ của bệnh tiểu đường. Có một sự khác
biệt rất lớn trong hoạt động của rau mùi được báo cáo trong nghiên cứu này và
thuốc hạ đường huyết mạnh - metformin, đó là rau mùi có tác dụng lên vận chuyển
glucose và sự hấp thu glucose ở ngoại biên là insulin trung gian. Chất chiết
xuất rau mùi có thể kích thích sự tiết insulin theo cách phụ thuộc liều lượng
của chiết xuất và glucose.
Các loài Tầm
ma (Urtica species)
Các nghiên cứu tiến hành trên U. pilulifera đã kết luận hiệu quả chữa đái tháo đường của hạt U. pilulifera, thông qua việc làm giảm lượng
đường trong máu ở chuột bị gây đái tháo đường bằng streptozotocin ở liều 100 mg/kg thể
trọng khi so sánh với chuột đối chứng. Sau đó người ta tiến hành khám nghiệm mô
học để hiểu được cơ chế tác động của loài thực vật này, kết quả cho thấy số
lượng các đảo β và các đảo islet cũng như đường kính của hạch ở các mô tụy đều
cao hơn ở những con chuột bị đái tháo đường được điều trị với U. pilulifera. Điều này thực sự cho thấy
hiệu quả hạ đường huyết của U. pilulifera
là thông qua việc tăng tiết insulin trong tế bào tuyến tụy. Tác động này có thể
do thành phần hoạt chất lectins thực vật của loài Urtica. Lectins thực vật là
glucoprotein có khả năng liên kết với các loại đường đặc biệt và thể hiện các tác
động sinh học.
Một nghiên cứu tương tự đã được tiến hành trên 30 con
chuột Wistar nhưng thông qua sử dụng chiết xuất của U. dioica, chia làm 3 nhóm: nhóm đối chứng bình thường, nhóm gây
đái tháo đường bằng streptozotocin, và nhóm bị đái tháo đường được điều trị bằng
chiết xuất của U. dioica. Chất gây
đái tháo đường ở chuột streptozotocin được đưa vào với hàm lượng 80 mg/
kg/ngày, chiết xuất hydrochloric của phần lá của U. dioica được đưa vào với
hàm lượng 100 mg/kg/ngày. Tỷ lệ các tế bào β tụy ở 3 nhóm đối chứng bình
thường, nhóm gây đái tháo đường bằng streptozotocin, và nhóm bị đái tháo đường
được điều trị bằng chiết xuất của U.
dioica theo thứ tự lần lượt là 73,1, 1,9 và 22,9% . Điều này cho thấy sự
đóng góp vào việc bảo vệ các tế bào β Langerhans của chiết xuất từ U. dioica.
Rau lê Địa
Trung Hải (Atriplex halimus)
Rau lê Địa Trung Hải là nguồn cung cấp vitamin A, C,
và D rất tốt cho cơ thể. Nó cũng có nhiều tannin, flavonoid, saponin, alkaloids
và nhựa. Tác động hạ đường huyết của chiết xuất từ lá A. halimus đã được kiểm tra với mô hình chuột bị gây đái tháo
đường bằng streptozotocin. Liều streptozotocin được dùng trong nghiên cứu này
là 200 mg/kg trọng lượng, và mức độ glucose huyết được đo sau 0-3 giờ. Sử dụng phương
pháp xét nghiệm dung nạp glucose, hiệu quả hạ đường huyết giảm đến 54% ở chuột
nhắt khi điều trị bằng các chất chiết xuất. Hoạt chất gây ra tác động hạ đường
huyết là các flavonoid, có thể có cơ chế tác động giống như insulin trong việc
điều chỉnh nồng độ glucose.
Quế (Cinnamomum
verum)
Quế bao gồm nhiều thành phần hoạt tính:
cinnamaldehyde, acid cinnamic, tanin, và methylhydroxychalcone (MHCP). Tác dụng
hạ đường huyết của cinnamaldehyde là kết quả của việc tăng cường insulin từ các
tế bào β của các đảo Langerhans. Hiệu quả này được so sánh với glibenclamide,
một loại thuốc được sử dụng chủ yếu để kích thích sự tiết insulin từ các tế bào
β tụy. Thêm vào đó, thành phần hoạt chất này của quế làm giảm đáng kể
cholesterol và triglyceride, trong khi đó lại làm tăng mức cholesterol HDL.
Liều gây chết người của hợp chất này là 1850 ± 37 mg/kg. Dựa trên điều này, hợp
chất này an toàn đối với động vật có vú. MHCP, một thành phần hoạt tính khác
của quế, được tìm thấy có chức năng như bắt chước insulin. MHCP được so sánh
với insulin trong việc hấp thu glucose, tổng hợp glycogen phụ thuộc
phosphatidylinositol-3-kinase, kích hoạt glycogen synthase thông qua hoạt tính
kinase-3β glycogen synthase. MHCP kích thích sự hấp thu glucose và tổng hợp
glycogen đến mức tương tự như insulin. Điều trị bằng MHCP kích hoạt quá trình
tổng hợp insulin thông qua hoạt hóa tổng hợp glycogen và ức chế hoạt động của
enzym tổng hợp glycogen kinase-3β (một chất ức chế enzym tổng hợp glycogen
thông qua một chuỗi phosphoryl hóa), đây là những cơ chế tác động đến insulin.
Sau đó kết hợp điều trị MHCP với insulin, kết quả cho thấy tác động trị liệu
cao hơn khi điều trị với từng hoạt chất riêng lẻ, gợi ý sự hiệp đồng tác động.
Óc chó (Juglans regia)
Trong vỏ xanh của quả óc chó có chứa một số axit hữu
cơ, chẳng hạn như axit xitric, axit malic, phosphat và oxalat canxi. Nó cũng
chứa axit siaresinolic, axit betulinic, daucosterin, α-tetralone, và
α-glucopyranoside. Trong óc chó có chứa thành phần chính là 5-hydroxy-1,4-naphtoquinone,
đây là một trong những hợp chất phenolic quan trọng nhất của lá óc chó và vỏ
xanh. Trong một báo cáo, khi cho chuột bị gây đái tháo đường bằng
streptozotocin sử dụng chiết xuất từ lá và vỏ xanh óc chó, kết quả cho thấy số
tế bào β của đảo Langerhans tăng lên so với nhóm không cho sử dụng chiết xuất
từ lá và vỏ xanh óc chó. Ngoài ra, nồng độ glucose huyết đói và HbA1c trong
huyết thanh của chuột đái tháo đường sử dụng chiết xuất từ lá và vỏ xanh óc chó
giảm đáng kể.
Gan là cơ quan quan trọng nhất liên quan đến việc điều
chỉnh lượng đường. Các enzym gan là phản ứng nhanh nhất với sự thay đổi mức
đường huyết. Dưới đây là danh sách các cây thuốc được biết là nhắm mục tiêu đến
gan trong việc kiểm soát đường huyết.
Cỏ ca ri (Trigonella
foenum-graecum)
Hạt của cây cỏ ca ri có chứa steroid saponin, gây ra hạ
cholesterol máu trong gan, thông qua việc giảm cholesterol tổng số cũng như mật
độ lipoprotein mật độ thấp (LDL)
Thì là đen (Nigella sativa)
Ở chuột bị bệnh tiểu
đường gây ra do streptozotocin-nicotinamide, mức glucose huyết thanh và insulin
được đo sau khi bắt đầu cho ăn hạt thì là đen. Nồng độ enzyme chuyển hóa chủ
yếu trong quá trình trao đổi carbohydrate cũng được đo; các enzyme này bao gồm
hexokinase (xúc tác trong glycolysis), glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD),
một enzym chủ chốt trong quá trình pentose phosphate. Ngoài ra còn có
glucose-6-phosphatase (G6Pase), fructose-1,6-bisphosphatase (F-1,6BP), hai
enzyme này xúc tác đến nồng độ glucose thông qua các quá trình gluconeogenesis
và glycogenolysis. Sự giảm mức đường huyết trong huyết tương là cùng lúc với sự
gia tăng nồng độ insulin huyết tương khi tăng mức thymoquinone từ 20mg/kg đến
80mg/kg đối với những con chuột bị tiểu đường. Trong các enzyme gluconeogenesis
chủ chốt, sự giảm glucose-6-phosphatase nhẹ kèm theo sự giảm đáng kể
fructose-1,6-bisphosphatase đã được nhận thấy. Tuy nhiên, đã có sự gia tăng
đồng thời mức độ các enzyme chuyển hoá chủ chốt chịu trách nhiệm cho việc tiêu
thụ glucose, đó là enzyme hexokinase glycolytic cũng như enzym dehydrogenase glucose-6-phosphate
của lipogenic.
Trà xanh (Camellia
sinensis)
Alloxan là một hoạt chất
được biết là gây ra tổn thương mô tế bào β tụy. Những con chuột bị
tiểu đường do Alloxan gây ra đã được kiểm tra khả năng hồi phục đường huyết sau
khi dùng polyphenol của trà xanh. Các chiết xuất được cho chuột sử dụng trong
15 ngày với hai liều khác nhau, cụ thể là 50 và 100 mg / kg thể trọng. Hai liều
chiết xuất này làm giảm 29% và 44% lượng đường huyết trong huyết tương khi so
sánh với chuột đối chứng. Sự thay đổi nồng độ glucose trong huyết tương đã làm
tăng mức độ và hoạt động của alanine transaminase (ALT) trong gan, trước đây
gọi là transaminase glutamate; enzym này là một trong những enzyme của chu kỳ
alanin gây ra sự sản xuất alanin từ pyruvate.
Hành tỏi (Allium
species)
A. sativum (tỏi) và A.
cepa (hành) đều có thành phần hoạt chất là các axit amin sulfulphidexit, cụ
thể là, S-methylcysteine sulfotlenide (SMCS) và S-allylcysteine sulfoxide
(SACS) - tiền chất của allicin và dầu tỏi. Hai thành phần này đã được chứng
minh là làm giảm các triệu chứng của bệnh tiểu đường, bao gồm không dung nạp
glucose, giảm cân, và sự suy giảm glycogen gan. Axit amin sulfoxide và
disulfdes có thể tiêu thụ NADPH và tương tác với các enzyme cần thiết cho tổng
hợp cholesterol và lipid. Hậu quả của các tương tác này sẽ ngăn chặn sự hủy
hoại insulin. Ngoài ra, glucose-6-phosphatase (G6Pase), enzyme đặc trưng cho
gan được ức chế dưới tác dụng của axit amin sulfoxit. Nghiên cứu bổ sung đã cho
thấy việc sử dụng SACS ở liều 200 mg / kg thể trọng ở chuột bị tiểu đường bằng
alloxan đã làm tăng đáng kể hoạt động của HMG CoA reductase (HMGCR) gan và ruột.
Enzyme này được kích hoạt thông qua các tín hiệu nội tiết khi mức glucose huyết
thanh cao. Ngoài ra, glucokinase trong gan, một enzyme chính của glycolysis,
cũng đã tăng lên đáng kể khi sử dụng SACS.
Óc chó (Juglans regia)
Các enzyme phosphoenolpyruvate carboxykinase (PEPCK)
xúc tác một trong những bước quan trọng của gluconeogenesis. Các enzym phosphorylase
glycogen (GP) xúc tác bước chính của
glycogenolysis. Enzyme này chịu trách nhiệm xúc tác từ pyruvate thành
phosphoenolpyruvate (PEP) thông qua một chất trung gian của oxalo acetat. Đặc
biệt trong gan, sự điều tiết của enzim này là một bước quan trọng trong sự cân
bằng đường huyết. Những con chuột bị tiểu đường do STZ gây ra đã được dùng để
nghiên cứu về hiệu quả điều trị của các chiết xuất cô đặc của lá óc chó với
liều 400 mg / kg. Nồng độ glucose trong máu được đo mỗi 1 giờ đến 5 giờ sau khi
sử dụng chiết xuất. Ngoài ra, gan đã được phẫu thuật cắt bỏ 2 giờ sau khi điều
trị chuột bị tiểu đường với chiết xuất, và các đo nồng độ của enzyme chính của
quá trình gluconeogenesis. Kết quả cho thấy mức glucose giảm sau khi điều trị
với chiết xuất lá óc chó, trong khi hoạt động PEPCK đã giảm và GP đã được kích
hoạt rất cao. Hoạt tính giảm của PEPCK được cho là cơ chế làm giảm lượng
glucose trong máu. Ngoài ra, hoạt tính tăng lên của GP gan, tạo ra chất nền
cho glucose-6-phosphate dehydrogenase (enzyme khởi tạo của con đường pentose
phosphate), cho thấy một cơ chế chống oxy hoá trong gan.
Chà là (Phoenix
dactylifera)
Quả chà là có chứa các hợp chất avonoid tự nhiên,
diosmetin 7-O-β-Larabinofuranosyl (1 → 2) β-D-apiofuranoside và diosmetin
7-O-β-D- apiofuranoside. Hai hợp chất này đã được đánh giá về hoạt động sinh
học trên mô hình chuột nhắt đái tháo đường do alloxan. Chuột bị bệnh tiểu đường
chuột đã được đưa vào cơ thể một trong hai thành phần hoạt tính ở trên (20
mg/kg cân nặng) trong 30 ngày. Mức độ của một số enzyme và phân tử đã được đánh
giá sau đó. Aspartate aminotransferase (AST) và alanine aminotransferase (ALT)
là hai enzyme thường có trong gan, nếu chúng rò rỉ vào máu sẽ làm hư hại gan. Kết
quả cho thấy chuột bị bệnh tiểu đường khi đưa vào cơ thể một trong hai hợp chất
của quả chà là đã cải thiện hàm lượng AST và ALT trong máu (tương ứng giảm từ
68.3 ± 4.8 μ / L xuống 54 ± 5.5 μ / L và từ 61.0 ± 3.6 μ / L lên 40.1 ± 3.6 μ /
L). Mức cholesterol và triglycerides cũng giảm nhẹ.
Các thuốc điều trị đái tháo đường theo cơ chế này sẽ kích
thích mô cơ và mỡ làm việc để cải thiện sự nhạy cảm của mô cơ và mô mỡ với
insulin. Kênh vận chuyển glucose GLUT4 là mục tiêu chính của hầu hết các thuốc
hạ đường huyết nhằm làm tăng sự hấp thu glucose trong các mô này. Dưới đây là
các cây thuốc giúp tăng cường hấp thu glucose ở mô cơ và mô mỡ:
Nghệ (Curcuma longa)
Các phương pháp thực nghiệm đã được tiến hành để phát
hiện tác dụng hạ đường huyết của Nghệ. Trong thân rễ phình thành củ của nghệ có
sesquiterpenoid và curcuminoids, đây là hai hoạt chất chính có tác động hiệu
quả trong việc hạ đường huyết. Cụ thể là các chất chiết xuất từ nghệ, bao gồm
curcumin, demethoxycurcumin, bisdemethoxycurcumin, và ar-turmerone là các chất
chủ vận tự nhiên PPAR-γ. Receptor này nằm trên nhân tế bào, giúp kích hoạt các
gen nhạy cảm với insulin, từ đó giúp tế bào sử dụng nhiều glucose hơn, làm giảm
lượng glucose trong máu. Sesquiterpenoid và curcuminoidsthe khi kết hợp cho tác
dụng hiệp đồng mạnh hơn nhiều trong việc hạ đường huyết so với sử dụng từng
chất đơn lẻ.
Ớt cựa gà (Capsicum
frutescens)
Một nghiên cứu lâm sàng
đã được thực hiện để đánh giá tác động của C.
frutescens đối với mức đường huyết đói ở chuột Wistar bị gây đái tháo đường
bằng Alloxan. 40 con chuột Wistar khỏe mạnh, trọng lượng từ 130-150 g được chia
thành 4 nhóm. Nhóm 1 là nhóm kiểm soát bình thường với chế độ ăn uống bình
thường. Nhóm 2 là nhóm bị bệnh tiểu đường được cho ăn với thức ăn thông thường.
Các nhóm 3 và 4 bị bệnh tiểu đường được cho ăn với thức ăn bình thường kèm theo
1g (nhóm 3) hoặc 2g (nhóm 4) Capsicum
frutescens. Có sự cải thiện đáng kể ở các thông số sinh hóa và nồng độ
đường trong máu ở nhóm 3 và nhóm 4 khi so sánh với chuột nhóm 2. Thêm vào đó,
mức tăng cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL-c) đã được nhận thấy, cùng với
sự giảm nồng độ cholesterol toàn phần, cho thấy vai trò hạ đường huyết kết hợp
tác động qua mô mỡ.
Hương nhu trắng (Ocimum
gratissimum)
Hương nhu trắng hay é lớn lá là loài thực vật thuộc
chi Húng quế Ocimum. Khi cho chuột bị gây đái tháo đường bằng STZ sử dụng chiết
xuất từ hương nhu trắng với liều 250, 500, và 1000 mg/kg thể trọng, lượng đường
trong máu chuột giảm rõ, đặc biệt ở liều 500 mg/kg. Sự hiện diện của tannin,
saponin, và flavonoid trong hương nhu trắng được biết đến với tác động chống
oxy hoá. Trong đó, axit tannic có khả năng kích thích vận chuyển glucose qua
kênh vận chuyển GLUT4.
Húng quế (Ocimum
basillicum)
Kadan et al. [102] đã thực hiện phân tích GC/MS tìm
kiếm các thành phần hoạt tính của húng quế, kết quả cho thấy trong chiết xuất
húng quế có chứa talose, glucopyranose, 4,7-Dimethoxy-1-indanone và axit palmitic,
axit α-linolenic. Sau đó tiến hành đánh
giá tác động của các chiết xuất nói trên đối với GLUT4 trên tế bào cơ xương L6.
Kết quả cho thấy sự nhạy cảm của insulin và sự vận chuyển của glucose qua kênh
GLUT4 tăng lên đáng kể.
Các loài
Sung (Ficus species)
Trong một nghiên cứu về tác động hạ đường huyết của
chiết xuất từ lá cây Ficus carica,
những con chuột bị gây bệnh tiểu đường bằng STZ đã được kiểm tra mức đường và sự
tiết insulin của chúng sau khi đưa vào cơ thể chiết xuất từ lá cây này. Trong
khi mức glucose giảm đáng kể, còn mức insulin không bị ảnh hưởng, cho thấy vai
trò của chiết xuất lá cây này trong việc tăng sử dụng glucose ở các mô ngoại vi.
Ngoài ra, chiết xuất lá cây Ficus carica
còn làm giảm mức cholesterol toàn phần
và giảm tỷ lệ cholesterol toàn phần/HDL cholesterol. Các hợp chất được đề xuất có thể gây ra tác động này là
polyphenols, flavonoid, và β-sitosterols.
4. Thực vật ức chế hấp thu glucose tại ruột
Nơi đầu tiên để giảm bớt mức đường huyết trong máu là ở
việc ức chế các enzym tiêu hóa phân tách tinh bột và disaccharides thành các,
tránh việc các monosaccharides có thể dễ dàng hấp thụ qua thành ruột. Do đó,
việc ức chế α-glucosidase sẽ là một hướng quan trọng trong nghiên cứu phát triển
các thuốc liên quan đến điều trị bệnh đái tháo đường. Một số dược liệu có khả
năng ức chế việc hấp thụ glucose được trình bày sau đây:
Trà xanh (Camellia
sinensis)
Chiết xuất catechin đậm đặc trong trà xanh có tác động
hiệu quả trong điều trị đái tháo đường. Sự hiện diện của các catechins trong ruột
ức chế sự hấp thu glucose và chất béo, còn sự hiện diện của chúng trong máu cũng
ức chế sự hấp thu glucose vào gan, cơ, và các mô mỡ. Như vậy, cần khống chế
tránh đề catechin hấp thu được vào máu, chỉ để chúng tồn tại trong ruột dạng
không hấp thu rồi đào thải ra ngoài, (ví dụ như dùng phối hợp với axit
poly-γ-glutamic), sao cho tác động của chúng đạt được hiệu quả mong muốn.
Quế (Cinnamomum verum)
Axit cinnamic là thành phần chủ yếu trong vỏ thân của
quế. Các dẫn xuất của axit cinnamic có hoạt động ức chế α-glucosidase trong ruột và α-amylase tụy. Giữa
các dẫn xuất axit cinnamic, các chất ức chế mạnh nhất α-glucosidase trong ruột của chuột là axit ferulic, axit isoferulic và
axit caffeic.
Ô-liu (Olea europaea)
Trong một nghiên cứu do Wainstein et al. (2012), chuột
mắc bệnh tiểu đường và chuột bình thường được cho sử dụng chiết xuất lá ô-liu,
kết quả cho thấy có sự giảm đáng kể lượng tinh bột được hấp thụ khi so sánh với
nhóm chuột đối chiếu. Trong cùng nghiên cứu đó, các thử nghiệm lâm sàng được
thực hiện với 79 bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Kết quả cho thấy hàm lượng
Hba1c giảm xuống ở nhóm được điều trị bằng chiết xuất lá ôliu so với nhóm điều
trị bằng giả dược.
Nghệ (Curcuma longa)
Chiết xuất từ C.
longa đã được tìm thấy có vai trò trong việc ức chế α-glucosidase ruột cũng
như enzyme α-amylase trong dạ dày ruột. Hoạt chất đóng vai trò ức chế hai
enzyme tiêu hóa đường này được xác định là turmerin. Thực nghiệm lâm sàng so
sánh tác động của turmerin và acarbose (Acarbose là một thuốc tetrasacharid
chống đái tháo đường đang được lưu hành rộng rãi trên thị trường, có tác động
ức chế men alpha - glucosidase ruột đặc biệt là sucrase mạnh, làm chậm tiêu hóa
và hấp thu carbohydrat). Đường cong đáp ứng liều của chiết xuất turmerin tương
đương với acarbose, và tiềm năng chiết xuất turmerin ức chế α-amylase thậm chí
vượt quá acarbose.
Óc chó (Juglans regia)
Trong một nghiên cứu lâm sàng trên chuột, chiết xuất
methanol từ lá óc chó đã được đưa vào cơ thể chuột (hàm lượng 250 mg/kg thể
trọng), kết quả cho thấy mức đường huyết
đói giảm xuống. Khi nghiên cứu sâu hơn về cơ chế tác động, một thử
nghiệm in vitro được tiến hành, trong đó phân tích hoạt tính ức chế α-glucosidase
và sự điều chế insulin và GLUT4. Kết quả cho thấy không có thay đổi có thể phát
hiện trong quá trình sao chép GLUT4 và insulin, hoạt tính α-glucosidase trong
ống nghiệm giảm đáng kể cho cả maltase và sucrase. Người ta cho rằng các hợp
chất quan trọng chịu trách nhiệm cho hoạt động ức chế α-glucosidase là các chất
phenolic, bao gồm axit gallic và axit caffeoylquinic.
Các dược liệu
trong nhóm này đã được đề cập ở trên, như Gừng, Trà, Oliu, Nghệ...
Những dược liệu
này có thể phòng ngừa các biến chứng gây ra do đái tháo đường là nhờ một số
tính năng như:
-
Chống viêm, chống
huyết khối, giảm đau: Gừng.
-
Chống oxy hóa,
chống stress tế bào beta tụy: Trà, Nghệ,
-
Tái phục hồi lại
mô tụy bị hư hỏng: Nigella sativa - loài thực vật có hoa trong họ Mao lương.
Cỏ xạ hương (Thymus
vulgaris)
Cỏ xạ hương là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa
môi, được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, dược liệu và trang trí. Các hoạt chất
có trong cỏ xạ hương bao gồm flavonoid, saponin, tannin, alkaloids và phenol,
thymol. Đặc biệt flavonoid có tỉ lệ phần trăm cao trong cây. Các chất hoá học
này được biết đến với đặc tính chống bệnh đái tháo đường của chúng. Đối với flavonoid,
đây là một chất thải trực tiếp của các gốc tự do, đặc biệt ở tế bào β-tụy thì
điều này rất quan trọng. Thymol là một thành phần chính của cỏ xạ hương nổi
tiếng vì khả năng chống oxy hoá và kháng khuẩn. Một nghiên cứu cho thấy rằng
việc điều trị chuột nhiễm toan chuyển hóa (một trong những biến chứng cấp của
đái tháo đường) do alloxan bằng chiết
xuất của các loại gia vị chứa thymol làm giảm mức độ đường trong máu một cách
đáng kể khi so sánh với nhóm chuột đối chứng. Ngoài ra, cholesterol toàn phần,
triglyceride, lipoprotein mật độ thấp (LDL) và lipoprotein mật độ rất thấp
(VLDL) giảm đáng kể ở những con chuột mắc bệnh tiểu đường khi điều trị bằng
thymol.
Lựu (Punica
granatum)
NF-κB là một phức chất protein hiện diện trong hầu hết
các loại tế bào động vật và liên quan đến việc sao chép DNA. Nó tham gia vào
phản ứng tế bào và liên quan đến các bệnh lý mạch máu như xơ vữa động mạch.
Chiết xuất từ quả lựu có khả năng chống oxy hóa tự nhiên, ức chế khối u mạch
máu.
Chất chiết xuất từ vỏ quả lựu ở nồng độ 2,0 μg / mL ức
chế sự oxy hóa lipid do H2O2 gây ra ở các tế bào hồng
cầu, gan, tim và thận, đồng thời làm giảm nồng độ glucose huyết thanh. Tác dụng
này cũng được tìm thấy ở Citrus sinensis
(cam) và Musica paradisiaca (chuối).
Ở chuột nhắt bị gây đái tháo đường bằng STZ, cho chuột
uống các chiết xuất nước lựu với liều
250 mg / kg và 500 mg / kg trong 21 ngày làm giảm đáng kể lượng đường trong
máu, cholesterol toàn phần, triglyceride, lipoprotein tỷ trong thấp (LDL) và tỷ
trọng rất thấp (VLDL). Mặt khác, mức lipoprotein mật độ cao (HDL) và hàm lượng glutathione
tăng lên.
Tyrosine và axit linoleic là những thành phần dễ bị
oxy hoá khi tiếp xúc với các dưỡng khí oxy và nitơ. N-linoleoyl tyrosine (LT)
là một dấu hiệu của sự oxy hóa tyrosine và acid linoleic. Sử dụng phương pháp thăm
dò LT, người ta thấy rằng tỷ lệ ôxi hóa LT cao hơn đáng kể ở bệnh nhân tiểu
đường so với những người bình thường. Trong một nghiên cứu lâm sàng, việc sử
dụng quả lựu trong 3 tháng đã ức chế khả năng oxy hoá LT, và kết quả là tỷ lệ
LT đã bị oxy hóa giảm đáng kể ở những bệnh nhân này.
Hành tỏi (Allium
species)
Ở chuột bị gây tiểu đường bằng Alloxan, việc tăng
đường huyết kéo theo việc tăng nồng độ urea và creatinin trong nước tiểu, hai
chỉ số này được coi là dấu hiệu cho rối loạn chức năng thận. Sau khi điều trị cho
những con chuột mắc bệnh tiểu đường với hành tây và chiết xuất tỏi, nồng độ urea trong nước tiểu chuột đã giảm
xuống. Bên cạnh đó, chuột bị tiểu đường cũng kéo theo biến chứng hoại tử gan và
rối loạn chức năng gan. Biến chứng này là do các enzyme trong gan như aspartate
aminotransferase (AST), alanine aminotransferase (ALT), lactate dehydrogenase
(LDH), cũng như alkaline và acid phosphatase (AIP, ACP) rò rỉ thất thoát từ gan
vào máu. Chuột đái tháo đường được điều trị với tỏi hoặc hành tây đã có sự giảm
hoạt động của các enzim này trong huyết tương, phục hồi hoạt động của chúng
trong gan.
S-methylcysteine sulfoxide và S-allylcysteine
sulfoxide là các chất chống oxy hoá có trong hành và tỏi. Hai chất này được
cho là làm giảm sự oxy hóa liên quan đến bệnh tiểu đường và do đó để cải thiện
tác dụng phụ trên bệnh nhân tiểu đường.